Địa chỉ: Đường đê, Tiên Sơn, Việt Yên, Bắc Giang 220000
Chùa Bổ Đà, còn được gọi là chùa Bổ, chùa Tam Giáo, chùa có tên chữ là Tứ Ân tự. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng, bờ tả dòng sông Cầu, thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Bổ Đà sơn là một dãy núi lớn tiếp nối nhau trải dài chừng 2km bao bọc hai thôn Tiên Lát Thượng và Tiên Lát Hạ, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Nơi đây có các dải núi nhấp nhô, cây xanh tươi tốt, ngàn thông sum họp, gió mát chim ca. Ẩn hiện dưới các tán cổ thụ là quần thể di tích chùa Bổ Đà trầm mặc, cổ kính uy linh, được tạo bởi các hạng mục: Chùa Tứ Ân, vườn tháp, am Tam Đức, chùa Cao, ao Miếu.
Tương truyền, chùa Bổ Đà có từ thời Lý (thế kỷ XI), được tu bổ, tôn tạo lớn vào thời vua Lê Dụ Tông (1720-1729) và các giai đoạn sau này. Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ. Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc "nội thông ngoại bế" tạo vẻ u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Qua nhiều thế kỷ, chùa Bổ Đà đã được trùng tu nhiều lần, song cơ bản vẫn giữ được nét kiến trúc cổ từ tường đất, vườn tháp đến kiến trúc gỗ truyền thống mang phong cách nghệ thuật đan xen của các thời đại nối tiếp nhau trải dài từ thế kỷ XVIII đến nay.
Khu nội tự (chùa chính Tứ Ân): Được xây dựng vào thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) do vị sư tổ họ Ngô, tự là Tính Ánh cùng nhân dân địa phương hưng công xây dựng, lập thành nơi khai trường thuyết pháp. Chùa được đặt tên là Tứ Ân với hàm nghĩa răn dạy phật tử phải biết báo đáp bốn ân (ơn): Ân trời đất, Ân đất nước, Ân thầy và Ân cha mẹ.
Thiết kế chùa theo kiểu kiến trúc nội công ngoại quốc (một nét đặc trưng của chùa Việt Nam) bố trí tám cửa ra vào tượng trưng cho bát quái của vũ trụ, đường đi thiết kế theo kiểu chữ Lục, trời mưa đi từ nhà nọ sang nhà kia không bị ướt. Kiểu kiến trúc này giống với chùa Phật Tích ở Bắc Ninh. Toàn bộ khu chùa hiện nay gồm 16 toà nhà lớn nhỏ với tổng số 92 gian. Bao gồm: nhà bếp, nhà tạo soạn, nhà tổ ly, nhà tổ, nhà tiền tế, nhà in kinh, nhà trai, nhà hành lang hình thước thợ, nhà pháp, nhà khách, nhà ga, toà tam bảo. Tòa tam bảo kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Phần hậu cung dài 12 m x 7,7 m gồm 5 gian. Toà tiền đường dài 21 m x 11 m có 7 gian, tường gạch, lợp ngói, nền lát gạch vuông, nền nhà cao 0,90 m có 3 bậc. Bậc thềm được lát bằng những phiến đá xanh có kích thước to nhỏ khác nhau; phía trên là 5 bộ cửa bức bàn. Dấu vết kiến trúc còn lại cho thấy các công trình được xây dựng vào thời Lê - Nguyễn, từ khi khởi dựng đến nay vẫn ở nguyên vị trí ban đầu.
Trong chùa lưu giữ nhiều bia đá, chuông đồng, hoành phi, câu đối và 39 pho tượng từ thời Lê Trung Hưng tạo bằng gỗ có giá trị nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật truyền thống. Bài trí tượng thờ tại tòa Tam bảo theo kiểu tiền Thánh-hậu Phật, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa và Tam giáo đồng nguyên. Đây là cách bài trí khác biệt của chùa Tứ Ân với các ngôi chùa thờ Phật khác. Chùa là nơi tu hành và là trung tâm đào tạo các tăng, ni thuộc thiền phái Lâm Tế trong vùng Kinh Bắc xưa.
Am Tam Đức: Am Tam Đức được xây dựng cùng thời gian với chùa Tứ Ân vào thời vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786). Các tổ tu tại chùa đặt tên am là “Tam Đức” vì mong các tăng, ni tu hành tại đây sẽ thông tuệ được ba đức tính: Trí đức, đoạn đức và ân đức. Am Tam Đức là nơi thờ tổ Như Thị (tên tục là Phạm Kim Hưng) người có nhiều công lao chấn hưng, mở mang chùa Bổ Đà.
Chùa Cao: Tương truyền, chùa Cao được xây dựng thời nhà Lý (thế kỷ XI), ban đầu chỉ là một gian chùa nhỏ bằng đất, lợp gianh tọa lạc trên đỉnh non cao Bổ Đà còn được biết đến với tên gọi chùa Quán Âm, nhân dân còn gọi bằng cái tên gần gũi là chùa ông Bổ hay chùa Bổ Đà gắn liền với sự tích người tiều phu chăm chỉ, hiền lành, tốt bụng. Đến đời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Bảo Thái (1720-1729) có vị trụ trì tên là Phạm Kim Hưng tiến hành trùng tu toà chính điện, thiêu hương, tiền đường, dựng cột đá, cột gỗ làm thêm được vài gian; trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo qua các đời cao tăng trụ trì chùa Cao ngày càng khang trang, tố hảo.
Bộ mộc bản cổ - bảo vật quốc gia: Bên cạnh chốn tổ Vĩnh Nghiêm ở Yên Dũng, có thể nói sơn môn Bổ Đà là chốn tổ, trung tâm Phật giáo lớn thứ hai ở Bắc Giang, đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá và duy trì phát triển đạo Phật mà thiền phái Lâm Tế là chủ đạo. Để phục vụ cho việc tu tập, đào tạo các tăng, ni, nhà chùa đã tổ chức san khắc gần 2000 mộc bản bằng chất liệu gỗ thị có niên đại từ thời vua Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) và các giai đoạn sau này, góp phần làm cho kho tàng pháp bảo của Phật giáo Việt Nam càng thêm phong phú. Kho mộc bản nằm ở khu hậu viện của chùa. Đặc biệt là những tấm gỗ thị dùng để khắc kinh đều rất bền, đẹp, không bị mối mọt, dù không dùng một loại thuốc bảo quản nào. Kinh được khắc nổi bằng chữ Hán, nét chữ tinh xảo, đến nay vẫn còn rất sắc nét.
Bộ kinh gỗ này có nói đến những đặc trưng của Phật giáo Trung Hoa khi được truyền vào Việt Nam với 3 tông phái (Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông). Trọng tâm của bộ kinh nói đến nỗi khổ của con người và sự giải thoát. Trong đó tiêu biểu nhất là Tứ Diệu Đế - 4 chân lý kỳ diệu của đạo Phật - gồm: Khổ Đế, Nhân Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Bộ kinh còn nói đến cõi niết bàn, những vòng luân hồi chuyển kiếp của một đời người, giải thích thế nào là sự tu nhân tích đức, cõi vô vi. Bộ kinh cũng thể hiện những tư tưởng của Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là sự ảnh hưởng của dòng Phật giáo thiền phái Trúc Lâm Tam tổ; thể hiện triết lý gắn bó giữa đạo và đời.
Tường đất: Điều đặc biệt ấn tượng với du khách khi đặt chân đến Bổ Đà là các bức tường hai bên lối vào, cổng, tường bao quanh khuôn viên chùa và một số công trình khác được xây dựng hoàn toàn bằng đất nện theo lối chình tường. Tường được chình bằng loại đất sỏi son ở núi Bổ Đà, có độ cao từ 1,8m đến 3 m, chân tường dày 0,8 m, đỉnh tường dày 0,4 m. Trên đỉnh tường có mõ tường được che bằng các mảnh gốm chum vại của làng Thổ Hà. Trải qua thời gian, mái và sườn tường đã ngả màu rêu càng làm tăng thêm vẻ cổ kính của ngôi chùa. Những dải tường bằng đất có tác dụng chắn gió mùa đông, mát mẻ vào mùa hè. Cổng vào chùa nền lát đá muối có kích thước to nhỏ khác nhau, xây theo kiến trúc thời Nguyễn mang dáng dấp gác chuông. Trong khu vực chùa, nhiều bức tường được xây bằng tiểu sành giống như làng Thổ Hà, nơi chuyên sản xuất chum vại, tiểu sành cách đó vài cây số, tạo vẻ rất trầm mặc, gần gũi với vùng thôn quê đồng bằng Bắc Bộ.
Hội thi hát quan họ: Hội chùa Bổ Đà hàng năm được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 2 âm lịch, đó cũng là ngày giỗ tổ khai sơn lập ra chùa Bổ Đà. Trung tâm lễ hội diễn ra ở khu vực Bổ Đà, người dân trong vùng tổ chức lễ tế ở đền Hạ sau đó lên đền Trung và đền Thượng thắp hương và vãn cảnh chùa. Trên sân chùa, các đoàn hát biểu diễn liên tục suốt mấy ngày đêm. Những canh hát quan họ, mời trầu, mời nước của các liền anh liền chị làm cho không khí ngày hội thêm vui tươi nhộn nhịp.